GIỚI THIỆU
Lời đầu
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn chẳng những là một vĩ nhân Việt
Nam, mà lại là một danh nhân trên mảnh đại lục Đông Nam Á từ thế kỷ XIII
đến nay.
Đối với lịch sử Việt Nam, ngài là một đại anh hùng dân tộc, có công
quét sạch giặc Nguyên(1) xâm lược, giữ vững tự do, độc lập cho nhân dân,
bảo vệ chủ quyền lãnh thổ cho tổ quốc; trên nối được dòng máu truyền
thống của Trưng Vương, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Ngô Quyền,
Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt…, dưới treo được tấm gương tranh đấu cho Đặng
Dung, Nguyễn Súy, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung…
Ngài là kết tinh của cả Việt Nam, một dân tộc có sức đấu tranh dai
dẻo, bền bỉ, không chịu khuất phục dưới bất cứ một ách cường quyền đô hộ
nào hoặc bó tay cúi đầu trước bất cứ một cuộc xâm lược công khai hay
trá hình nào.
Công nghiệp ngài đã đi sâu vào dân chúng. Tên tuổi ngài đã sống mãi
với non sông. Vậy sao còn cần đến cuốn tiểu sử này? Là vì võ công, văn
nghiệp của ngài, trước kia, người mình chỉ chép toàn bằng chữ Hán, mà
lại tản mát chưa có hệ thống; gần nay, tuy có một vài cuốn sách, tờ báo
quốc ngữ nói đến, nhưng hãy còn sơ lược chưa đủ hoặc truyền văn thất
chân.
Vả, lối dân chúng “thần thánh hóa” các bậc vĩ nhân lại làm cho một số
người hiểu đức Trần Hưng Đạo theo một phương diện khác, một ý nghĩa
khác.
Vậy xin cố gắng tra cứu sử sách Nam Bắc, sưu tầm tài liệu xưa nay,
làm thành cuốn Trần Hưng Đạo này, mong đi tới mấy mục đích đã đặt:
- Giới thiệu cho các bạn nam nữ thanh niên biết rõ hơn về một nhân vật lịch sử, văn võ toàn tài: chống ngoại xâm, giành độc lập;
- Bổ sung thêm đôi chút vào chỗ khuyết trong các sử sách ta xưa nay đã chép về đức Trần Hưng Đạo;
- Nhắc lại những kinh nghiệm trong mấy cuộc kháng chiến Mông Cổ do anh hùng Trần Quốc Tuấn lãnh đạo;
- Lấy Trần Hưng Đạo làm đối tượng nghiên cứu, lại lấy lịch sử đương thời làm bối cảnh, cung chút tài liệu cho văn, sử học sau này.
Nếu mấy mục đích ấy đạt được thì thật là một sự khuyến khích lớn cho kẻ viết.
Nói thêm
Những sách, báo tham khảo đều có liệt kê ở cả cuối sách. Tựu trung, khi dẫn chứng, có mấy tên sách viết tắt như:
Đại Việt sử ký toàn thư, viết là Toàn thư;
Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết là Cương mục;
Lịch triều hiến chương loại chí viết là Lịch triều hiến chương.
Các địa danh về quan, ải, sông, núi và đất… ở đời Trần, so với ngày
nay, duyên cách nhiều lắm. Ngay như một con sông Cái (hồi Minh thuộc gọi
là Nhị Hà, ngày nay gọi là Hồng Hà) bấy giờ chia gọi nhiều khúc khác
nhau; khúc trên mạn ngược (từ miền Lào Cai, Yên Bái xuống đến ngã ba
Hạc) thì gọi sông Thao; khúc từ ngã ba Hạc đến Thăng Long thì gọi sông
Lô; khúc từ miền Hưng Yên thì gọi sông Tha Mạc hoặc Thiên Mạc; khúc từ
miền Hà Nam thì gọi Đại Hoàng giang hoặc Hoàng giang… Trong mấy cuộc
kháng Nguyên, có lắm địa danh thấy chép ở An Nam chí lược như Tích Nỗ
Nguyên, Tứ Thập Nguyên, Lãnh Mỹ, Hải Thị quan, Lãng Sơn (Lãng là sóng:
Núi Lóng), chợ Đông Hồ (Đông Hồ thị), cầu Phù Lỗ… và ở Toàn thư như Linh
Kinh quan, Vũ Cao quan, Đa Mỗ loan…, nay rất khó kê cứu. Vậy phàm địa
danh nào có thể khảo được thì xin cước chú ở dưới. Đúng lý ra, một địa
danh nào nếu đã chú thích ở một chương trên rồi thì ở các chương dưới
không phải nhắc lại nữa. Nhưng vì muốn cho độc giả khỏi phí thì giờ tìm
lại chỗ trước, nên thỉnh thoảng cũng có chua lại. Còn những địa danh nào
hoặc đánh dấu hỏi trong hai ngoặc đơn hoặc không chua ở dưới đều là
“tồn nghi”, đợi khảo sau. Xin bạn đọc lượng thứ.
Ba bức bản đồ kháng chiến Mông Cổ ở cuối sách về địa điểm lịch sử thì
có chất chính cùng nhà học giả Hoàng Xuân Hãn; về phương diện chuyên
môn thì nhờ hoa tay của nhà khảo cổ Biệt lam Trần Huy Bá. Tiện đây, tác
giả xin ghi mấy lời thành thực cảm tạ.
Tác giả
Ngày 4 tháng 2 năm 1950
Chương Nhất: Gia thế và cá tính Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo đại vương, họ Trần, húy Quốc Tuấn, là con An Sinh vương Trần
Liễu và bà Nguyệt, là em Vũ Thành vương Trần Doãn và là anh Thiên Cầm
hoàng hậu, vợ vua Trần Thánh Tôn (1258-1278).
Ngài gọi Trần Thừa (sau được tôn làm Thái tổ) bằng ông nội, Trần Cảnh (vua Trần Thái Tôn) bằng chú ruột.
Đối với hoàng tộc nhà Trần, ngài là bậc thân vương, nên hồi tháng
mười, năm Quý Mão (1283), có giặc Mông Cổ xâm lược, ngài được vua Trần
Nhân Tôn (1279-1293)(2) tiến phong làm Quốc công.
Theo chế độ nhà Trần, hễ thân vương làm tướng văn thì gọi là “công”,
nay ngài do thân vương làm tướng võ, nên gọi là “quốc công”. Còn người
mình và cả người Trung Hoa gọi ngài là “Hưng Đạo vương” hoặc “Hưng Đạo
đại vương”, là tôn xưng theo tước phong của ngài.
Như vậy, ngài là người họ tông thất rất thân nhà Trần và là nhân vật đứng trong tầng lớp quý tộc.
Các sử ta xưa không chép ngài sinh vào năm nào đến khi ngài mất cũng
không nói ngài thọ bao nhiêu tuổi, nên nay không thể biết được ngày sinh
của ngài(3).Mà chỉ tạm nêu một giả thuyết:
Sau ngày rằm tháng hai, năm Tân Hợi (1251), Quốc Tuấn tự do luyến ái
rồi kết hôn với Thiên Thành công chúa (Toàn thư, quyển 5, tờ 17a-b).
Qua tháng tư năm ấy (Tân Hợi, 1251), thân phụ ngài là An Sinh vương Trần Liễu mất, mới 41 tuổi (Sử dẫn trên, tờ 18b).
Trần Liễu mất năm 41 tuổi. Nếu 18 tuổi đã sinh con thì bấy giờ (Tân
Hợi, 1251) Quốc Tuấn 23 tuổi; nếu Trần Liễu 21 tuổi mới có con thì Quốc
Tuấn bấy giờ 20 tuổi.
Sử chép ngày 20 tháng tám, năm Canh Tý (năm 1300) đời vua Trần Anh Tôn (1293-1314)(4), Hưng Đạo đại vương mất.
Vậy nay có thể phỏng đoán: Trần Quốc Tuấn sinh vào khoảng niên hiệu
Kiến Trung hồi đầu Trần, lối năm Kiến Trung thứ tư (1228) đến thứ bảy
(1231) và ngài thọ trên dưới 70 tuổi, độ từ 69 đến 72.
Thuở bé, ngài được người ta đoán rằng ngày sau tất là một tay “kinh bang, tế thế ” (經邦濟世).
Lớn lên, dung mạo khôi vĩ, thông minh hơn người, ngài xem rộng các sách, gồm tài văn võ.
Trước kia, An Sinh vương Liễu có hiềm khích với vua Trần Thái Tôn, nên rộng tìm những kẻ sĩ có nghệ năng để rèn dạy ngài.
Ngài có bốn con trai là Hưng Vũ vương Quốc Hiến, Hưng Hiến vương Quốc
Uy, Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, Hưng Trí vương Quốc Nghiễn, một con
gái đẹp duyên cùng Trần Nhân Tôn(5) và một con gái nuôi lấy Phạm Ngũ
Lão(6).
TRUNG DŨNG – THẬN TRỌNG
Tính rất trung dũng, ngài đã biểu lộ ở lời nói và việc làm.
Khi có giặc Mông Cổ, ngài dụ bảo các tướng sĩ rằng: “Đến bữa, ta từng
quên ăn; ban đêm, ta thường dựa gối, trào nước mắt, lòng đau như dần,
giận không được ăn thịt nằm da… của quân địch!”
Tấc lòng thương dân lo nước ấy đã được chứng tỏ trong mấy lời đáp vua
Trần Thánh Tôn: “Chặt đầu thần trước, rồi hãy nói chuyện xuống hàng”,
khi nhà vua hỏi thử ngài rằng: “Thế giặc như vậy, âu ta hãy hàng”.
Lời “quyết chiến, quyết thắng” trên đây cũng như khi qua Hóa Giang(7), ngài đã hô quân sĩ, trỏ sông ấy mà thề:
“Chuyến này không phá được giặc Nguyên thì không chịu về đến sông này nữa.”
Ngài lại có tính rất thận trọng:
Trần Thánh Tôn thấy ngài có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc
công, cho ngài được tự chuyên trong việc ban tước từ Minh tự (明字) trở
xuống; duy có tước hầu thì “ban trước, tâu sau”. Thế mà ngài chưa từng
ban tước cho một người nào cả.
Khi có giặc Mông Cổ, ngài ra lệnh khuyên các nhà giàu quyên thóc để
phát cho quân sĩ, rồi ngài chỉ thưởng cho họ hàm Lang tướng giả, chứ
không cho chức Lang tướng thật.
VÌ NGHĨA CẢ, BỎ TÌNH RIÊNG
Thân phụ ngài là An Sinh vương Trần Liễu có người vợ là Lý thị đang
có mang. Trần Thủ Độ thấy vua Trần Thái Tôn (1225-1258)(8) bấy giờ chưa
có con, bèn lấy Lý thị cho Trần Thái. Vì thế Trần Liễu căm tức, nổi
loạn, nhưng sau Liễu thua trận, phải nhảy vào thuyền vua Thái Tôn mà xin
hàng.
Dẫu được xá tội, phong đất An Sinh(9) làm thái ấp, nhưng từ đó, Trần Liễu vẫn mang hận một bên lòng.
Mà thật thế, có lần An Sinh vương Liễu bảo con là Trần Quốc Tuấn
rằng: “Mai sau, nếu con không vì ta mà lấy được thiên hạ(10) thì ta nằm
dưới đất, không sao nhắm mắt được đâu!”
Ngài tuy nhớ mãi câu ấy nhưng không cho là phải. Gặp khi quốc gia lâm
nguy, ngài nắm trong tay cái quyền quân quốc, bèn đem lời cha ngày
trước hỏi thử ý kiến hai gia thần(11) là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai người
này khảng khái can ngay bằng giọng trung trực: “Tính làm việc ấy dẫu
được giàu sang một thời đấy thật, nhưng tiếng xấu để mãi nghìn thu. Đại
vương bây giờ há chẳng giàu sang rồi ư? Chúng tôi thề rằng thà chết già
làm gia nô còn hơn làm hạng quan vô trung hiếu…”.
Cảm động, ngài ứa nước mắt, bùi ngùi thán phục Dã Tượng, Yết Kiêu là nói rất phải.
“Chim hồng hộc sở dĩ bay cao được, là nhờ có những lông cánh dài.”
Ngài đã phải tấm tắc khen Yết Kiêu, Dã Tượng như thế, khi họ, sau này
tham dự vào những cuộc kháng chiến Mông Cổ.
download
Nguồn: downloadsach.com
Ebook
Published:
2016-12-06T10:26:00+07:00
Title:Trần Hưng Đạo
Rating:
5 On
22 reviews